✨Thiên tử

Thiên tử

thumb|[[Chu Vũ vương - người sáng lập ra nhà Chu và mở đầu thời kì Chu Thiên tử.]] Thiên tử (chữ Hán: 天子), với ý nghĩa là "Người con của trời", là danh từ được dùng để gọi những vị Vua trong hệ thống văn minh Hoa Hạ, với ý nghĩa là người trị vì tối cao, đảm nhận ý mệnh của Thượng đế mà trị vì thiên hạ.

Các quốc gia chịu sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên từng ghi nhận cũng dùng danh hiệu này. Danh hiệu này tương đương với Thiền vu, Khả hãn, Pharaon cùng Sultan theo hệ ngữ văn minh khác biệt.

Lịch sử

Từ "Thiên tử" xuất hiện từ khi Hoàng Đế lên ngôi, sau truyền cho Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Sách Trung Dung có nói về khái niệm Thiên tử như sau:「"Đức vi Thánh nhân, tôn vi Thiên tử"; 德為聖人,尊為天子」, ý chỉ Đế vương là con của trời, dân chúng phải tôn kính và phục tùng, từ đó cụm từ này được dùng để gọi các Đế vương có quyền hành tối cao.

Sang thời nhà Chu ở Trung Quốc, cụm từ này chuyên dụng để chỉ các vị Chu vương để phân biệt với các chư hầu, và để tuyên bố sự chính danh của mình khi lật đổ nhà Thương, cho rằng thiên mệnh đã bị hủy do nhà Thương hết vận và chuyển sang triều đại nhà Chu. Đến khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi, cụm từ này là cách dùng khác để gọi Hoàng đế - danh hiệu do Thủy Hoàng tạo ra để nâng cao hơn danh hiệu Vương trước đó. Từ đấy trở đi, các quốc gia ảnh hưởng Hoa Hạ, xưng Đế tôn Vương, để biểu thị quyền lực cũng tự gọi là Thiên tử.

Chiếu chỉ của Thiên tử gọi là Thánh chỉ (聖旨), mang nội hàm "Đức vi Thánh nhân". Sang thời nhà Minh và nhà Thanh, khi ban hành mệnh lệnh đều chế định một cụm 「Phụng Thiên Thừa Vận Hoàng đế; 奉天承運皇帝」, cũng biểu thị Hoàng đế tôn quý cũng là phải tuân theo mệnh trời mà ban phát chiếu chỉ. Cách làm này được học giả phương Tây gọi là 「Quân quyền thần thụ; Divine right of kings」.

Ảnh hưởng

Do ảnh hưởng quan trọng của văn minh Trung Hoa, cụm từ ["Thiên tử"] đã vượt ra phạm vị Trung Hoa mà ảnh hưởng đến các quốc gia đồng văn Đông Á.

Tại Nhật Bản, do mô phỏng theo văn minh Trung Hoa mà từ "Thiên tử" được dùng xuyên suốt thời Asuka. Các vị Thiên hoàng có thiên mệnh, là con cháu của Thiên Chiếu Đại thần, có quyền tuyệt đối trong việc trị vì Nhật Bản, tuy về mặt hình thức có khác biệt nhưng cũng biểu thị hàm ý vân mệnh trời mà trị vì thiên hạ vậy. Thời nhà Tùy, Nhật Bản từng phái sứ giả đến tự xưng mình là [Nhật xuất sở Thiên tử; 日出处天子], ý là "Vị Thiên tử của xứ sở mặt trời mọc", khiến Tùy Dạng Đế Dương Quảng tức giận, sửa gọi người Nhật Bản thành ["Di nhân"; 夷人]. Vì vậy xuyên suốt các giai đoạn lịch sử, Nhật Bản thay vì thay đổi các Thiên tử, thì họ chỉ thay đổi chính quyền kiểm soát Thiên tử như Mạc phủ.

Ở Việt Nam, cụm từ "Thiên tử" có tính chất tương tự như ở Trung Hoa. Qua nhiều năm xây dựng văn hiến, Việt Nam vẫn nhất nhất mô phỏng chế độ Trung Hoa, coi sứ mệnh của Thiên tử là tùy vào sự đức độ và phục chúng. Việc này cũng dẫn đến hệ quả Việt Nam luôn muốn sự phục tùng của các nước Đông Nam Á như Chiêm Thành, Cao Miên,... Triều đình nhà Đinh , nhà Tiền Lê , nhà Lý, nhà Trần, nhà Hậu Lê đến Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đều mô phỏng "hệ thống triều cống của Trung Hoa" để chứng minh sự tối cao của các vị vua Việt Nam tương tự Thiên tử Trung Hoa vậy.

👁️ 45 | ⌚2025-09-03 20:58:28.584
Mua hàng tại Shopee giảm thêm 30%

Đệ tử quy, Tam tự kinh, Thiên tự văn là giáo trình cơ sở khai mở đạo đức truyền thống Trung Hoa. Ba bộ sách này hợp lại thường được gọi chung là Đệ Tam
Đệ tử quy, Tam tự kinh, Thiên tự văn là giáo trình cơ sở khai mở đạo đức truyền thống Trung Hoa. Ba bộ sách này hợp lại thường được gọi chung là Đệ Tam
Ngũ Thiên Tự là sách học chữ Hán, chữ Nôm của Việt Nam rất xa xưa – sách soạn theo thể thơ lục bát, thể thơ thuần túy Việt, Trung Quốc không có. Quyển sách
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
thumb|[[Chu Vũ vương - người sáng lập ra nhà Chu và mở đầu thời kì _Chu Thiên tử_.]] **Thiên tử** (chữ Hán: 天子), với ý nghĩa là _"Người con của trời"_, là danh từ được
là một bài thơ dài của Chu Hưng Tự sáng tác vào thời Nam Lương (502 - 557), được tạo thành từ chính xác 1000 chữ Hán không lặp lại, sắp xếp thành 250 dòng
Combo Đệ Tử Quy - Phép Tắc Người Con + Tam Tự Kinh + Thiên Tự Văn + Đạo Lý Làm Người (Bộ 4 Cuốn) 1. Đệ Tử Quy - Phép Tắc Người Con “Đệ
**Tam thiên tự** (三千字, "ba ngàn chữ"), hay **Tự học toản yếu** (字學纂要) là một cuốn sách cổ, do Ngô Thì Nhậm soạn, dạy chữ nho cho người Việt. Ban đầu, sách có tên là
**Tam thiên tự lịch đại văn Quốc âm** (三千字歷代文國音) là một cuốn sách Nôm. Bản còn giữ được có niên đại xuất bản năm Thiệu Trị thứ 5 (1815), do nhà sư Phúc Điền tổ
1) Thiên tự văn (bìa mềm) Tác giả: Chu Hưng Tự (thời Nam Lương) Giá bìa: 95000 ₫ NXB: NXB Dân Trí Phát hành: Minh Thắng Năm xuất bản: 2020 (ISBN: 97868885786)(Mã sách: 8935236418270) Dạng
Nhị Thiên Tự Cuốn sách Nhị Thiên Tự giúp cho những bạn muốn học chữ Hán có một số chữ căn bản để làm cơ sở cho việc đi sâu vào chữ Hán với 3500
Nhị Thiên Tự Cuốn sách Nhị Thiên Tự giúp cho những bạn muốn học chữ Hán có một số chữ căn bản để làm cơ sở cho việc đi sâu vào chữ Hán với 3500
Đệ tử quy, Tam tự kinh, Thiên tự văn là giáo trình cơ sở khai mở đạo đức truyền thống Trung Hoa. Ba bộ sách này hợp lại thường được gọi chung là Đệ Tam
Đệ tử quy, Tam tự kinh, Thiên tự văn là giáo trình cơ sở khai mở đạo đức truyền thống Trung Hoa. Ba bộ sách này hợp lại thường được gọi chung là Đệ Tam
**Chân Mệnh Thiên Tử** (tiếng trung: _真命天子 )_ là một bộ phim thần thoại cổ trang Hồng Kông sản xuất vào năm 2015 với sự tham gia của Trương Trác Văn, Ô Tĩnh Tĩnh, Hải
**_Mục thiên tử truyện_** (chữ Hán: 穆天子傳) còn gọi là **_Chu vương du hành_** (周王遊行), không rõ tác giả, đoán rằng sách được hoàn thành vào thời Chiến Quốc, ghi chép về chuyến du hành
**_Ô Long Thiên Tử_** hay **_Ô Long vượt ải tình_** (giản thể: 乌龙闯情关; phồn thể: 乌龙闯情关; bính âm: _ Wu Long Chuang Qing Guan_) là một bộ phim truyền hình cổ trang Đài Loan được
1 - Ngũ Thiên Tự : Sách Ngũ Thiên Tự có 390 trang chia thành hai phần. Phần nội dung chính trình bày 5.000 chữ Hán-Nôm, có cả âm đọc Hán Việt. Phần phụ lục
Tam Thiên Tự Tam Thiên Tự là một bộ sách học chữ Hán vở lòng được soạn theo cách có vần, có lời đối nhau. Mỗi câu có 4 chữ, chữ thứ tư câu đầu
Tam Thiên Tự Tam Thiên Tự là một bộ sách học chữ Hán vở lòng được soạn theo cách có vần, có lời đối nhau. Mỗi câu có 4 chữ, chữ thứ tư câu đầu
Tam Thiên Tự Tam Thiên Tự là một bộ sách học chữ Hán vở lòng được soạn theo cách có vần, có lời đối nhau. Mỗi câu có 4 chữ, chữ thứ tư câu đầu
Tam Thiên Tự Tam Thiên Tự là một bộ sách học chữ Hán vở lòng được soạn theo cách có vần, có lời đối nhau. Mỗi câu có 4 chữ, chữ thứ tư câu đầu
Tam Thiên Tự Tam Thiên Tự là một bộ sách học chữ Hán vở lòng được soạn theo cách có vần, có lời đối nhau. Mỗi câu có 4 chữ, chữ thứ tư câu đầu
Tam Thiên Tự Tam Thiên Tự là một bộ sách học chữ Hán vở lòng được soạn theo cách có vần, có lời đối nhau. Mỗi câu có 4 chữ, chữ thứ tư câu đầu
Ngũ Thiên Tự Ngũ Thiên Tự là sách học chữ Hán, chữ Nôm của Việt Nam rất xa xưa - sách soạn theo thể thơ lục bát, thể thơ thuần tuý Việt, Trung quốc không
Ngũ Thiên Tự Sách do Vũ Văn Kính, Khổng Đức khảo đính và thực hiện dựa trên bản Ngũ Thiên Tự vốn là một bộ sách dành cho người Việt học chữ Hán từ xưa
"THIÊN TỰ VĂN" do Chu Hưng Tự thời Nam Lương, thụ hoàng mệnh Lương Vũ Đế biên soạn. Đây là bộ sách xuất sắc nhất trong các kinh điển giáo dục trẻ em truyền thống
"THIÊN TỰ VĂN" do Chu Hưng Tự thời Nam Lương, thụ hoàng mệnh Lương Vũ Đế biên soạn. Đây là bộ sách xuất sắc nhất trong các kinh điển giáo dục trẻ em truyền thống
Tam Thiên Tự là một bộ sách học chữ Hán vở lòng được soạn theo cách có vần, có lời đối nhau. Mỗi câu có 4 chữ, chữ thứ tư câu đầu bắt vần với
Cuốn sách Nhị Thiên Tự giúp cho những bạn muốn học chữ Hán có một số chữ căn bản để làm cơ sở cho việc đi sâu vào chữ Hán, tác giả Long Cương NGUYỄN
"THIÊN TỰ VĂN" do Chu Hưng Tự thời Nam Lương, thụ hoàng mệnh Lương Vũ Đế biên soạn. Đây là bộ sách xuất sắc nhất trong các kinh điển giáo dục trẻ em truyền thống
"THIÊN TỰ VĂN" do Chu Hưng Tự thời Nam Lương, thụ hoàng mệnh Lương Vũ Đế biên soạn. Đây là bộ sách xuất sắc nhất trong các kinh điển giáo dục trẻ em truyền thống
THIÊN TỰ VĂN do Chu Hưng Tự thời Nam Lương, thụ hoàng mệnh Lương Vũ Đế biên soạn. Đây là bộ sách xuất sắc nhất trong các kinh điển giáo dục trẻ em truyền thống
THIÊN TỰ VĂN do Chu Hưng Tự thời Nam Lương, thụ hoàng mệnh Lương Vũ Đế biên soạn. Đây là bộ sách xuất sắc nhất trong các kinh điển giáo dục trẻ em truyền thống
Ngũ Thiên Tự là sách học chữ Hán, chữ Nôm của Việt Nam rất xa xưa – sách soạn theo thể thơ lục bát, thể thơ thuần túy Việt, Trung Quốc không có. Quyển sách
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Tổ chức từ thiện** là một loại tổ chức phi lợi nhuận ("N.P.O") thực hiện các hoạt động từ thiện. Thuật ngữ này là tương đối chung chung và kỹ thuật có thể tham khảo
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
**Thiên Tân** (; ), giản xưng **Tân** (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của
**Thiên** (zh. 天, sa., pi. _deva_), còn gọi là **Thiên nhân**, **Thiên thần**; với nguyên nghĩa Phạn _deva_ là "người sáng rọi", "người phát quang", trong văn hóa Phật Giáo là một trong 8 loại
**Võ Tắc Thiên** (chữ Hán: 武則天, 624 - 16 tháng 12, 705) hay **Vũ Tắc Thiên**, thường gọi **Võ hậu** (武后) hoặc **Thiên hậu** (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái
**Hòa thượng** (HT) **Thích Thanh Từ** (thế danh **Trần Hữu Phước**, sinh ngày 24 tháng 7 năm 1924 (Giáp Tý) là thiền sư; nhà khảo cứu, thông dịch và giảng giải các kinh luận Phật
**Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên** là một thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử nằm tại thị trấn Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội khoảng 85 km về
Ỷ Thiên Đồ Long ký là bộ tiểu thuyết nằm trong Xạ điêu tam bộ khúc của Kim Dung, phần tiếp theo của Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ, trong truyện có
**Thiền uyển tập anh** (chữ Hán: 禪苑集英), còn gọi là **Thiền uyển tập anh ngữ lục** (禪苑集英語錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục** (大南禪宛傳燈集錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng** (大南禪宛傳燈), **Thiền uyển
**Đại Thiện** (; ; 19 tháng 8 năm 1583 – 25 tháng 11 năm 1648) là một hoàng thân Mãn Châu và chính trị gia có ảnh hưởng của nhà Thanh trong thời gian khai
**Từ thiện** là một hành động trợ giúp người yếu kém, người gặp nạn, hoặc có hoàn cảnh khó khăn. Hoạt động từ thiện có thể thông qua hình thức quyên góp, hiến tặng bằng
**Thiện nhượng** (_chữ Hán_: 禪讓) có nghĩa là _nhường lại ngôi vị_, được ghép bởi các cụm từ **Thiện vị** và **Nhượng vị**, là một phương thức thay đổi quyền thống trị của những triều
thumb|281x281px|Dấu ấn lịch sử tại [[Dinh tổng thống (Nam Kinh)|Dinh tổng thống Nam Kinh nhắc đến chữ "Thiên Vương" trong lời tựa ()]] **Thiên vương** () là tước hiêu của Trung Quốc dành cho các
Tượng Pháp Vũ tại [[chùa Keo (Hà Nội)]] Tượng Pháp Vân, ở [[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] **Tứ Pháp** (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần