✨Niết-bàn kinh

Niết-bàn kinh

nhỏ|235x235px|Bản kinh Đại thừa Đại-bát Niết-bàn vào thời [[nhà Tùy (Trung Hoa)]]

Đại thừa Đại Bát-niết-bàn Kinh (Tiếng Phạn: महापरिनिर्वाण सूत्र, IAST: Mahāparinirvāṇa Sūtra, chữ Hán: 大般涅槃經, Bính âm: Dàbānnièpán-jīng) là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất thuộc hệ Như Lai Tạng (Tathāgatagarbha sūtra). Tương truyền, kinh này được Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng ngay trước khi ngài nhập Vô dư Niết-bàn (Bát Niết-bàn). Cần phân biệt rõ hai kinh: kinh Đại-bát Niết-bàn (hay thường viết tắt là Niết-bàn kinh) theo truyền thống Phật giáo Đại thừa và kinh Đại-bát Niết-bàn (tiếng Pali: Mahāparinibbāṇa Sutta) theo truyền thống Thượng tọa bộ (Theravada) vì (1) kinh Tiểu thừa Đại-bát Niết-bàn thuộc Trường bộ kinh (Pa. Digha Nikaya) trong kinh Đại thừa Đại-bát Niết-bàn không thuộc Trường A-hàm (Sa. Dīrghāgama, tương đương với Trường bộ kinh trong Bộ kinh Nikaya), (2) văn phong kinh Đại thừa thường trừu tượng và rộng nghĩa hơn so với văn phong kinh Tiểu thừa và (3) sự khác biệt về nội dung của hai bộ kinh này là rất lớn (có thể xem như là khác hẳn dù vẫn có một số điểm chung như cả hai đều có chi tiết sự cúng dàng của thợ rèn Thuần-đà (Cunda)...).

Hiện nay, người ta chưa xác định được chính xác thời gian ra đời của kinh Niết-bàn nhưng có thể có trước tác vào khoảng thế kỷ 2 sau Công nguyên. Nguyên bản tiếng Phạn đã bị thất truyền ngoại trừ một vài trích đoạn nhỏ, thế nhưng dịch bản Hán - Tạng vẫn còn được lưu truyền tới ngày nay. Kinh có hai bản dịch tiếng Trung là dịch bản của ngài Đàm-vô-sấm (Sa. Dharmakṣema) và bản còn lại của pháp sư Pháp Hiển. Hai bản này có chút sai khác về nội dung, cụ thể là bản của ngài Đàm-vô-sấm khẳng định rằng mọi chúng sinh đều có Phật tính trong khi bản của ngài Pháp Hiển nói rằng tồn tại một vài loài hữu tình không có khả năng giác ngộ thành bậc Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Tuy nhiên, truyền bản của ngài Đàm-vô-sấm vẫn được lưu truyền phổ biến hơn ở các nước Đông Á (Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc...) và có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống giáo pháp ở các nước này.

Nội dung

nhỏ|281x281px|Tượng Phật nhập Niết-bàn từ [[Thế kỷ 17|thế kỉ 17, hiện đang được trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (Hà Nội)]] Niết-bàn kinh là một bộ kinh Đại thừa thuộc hệ Như Lai tạng vì nó khẳng định rằng mọi chúng sinh đều có Phật tính (Sa. Buddhadhātu) hay trong kinh này là Như Lai tạng (Tathāgatagarbha). Phật tính bất sinh, bất diệt, thường hằng và thường trụ nơi chúng sinh do đó mọi loài hữu tình đều có đầy đủ tố chất, năng lực để tự giác ngộ thành Phật. Đó là tư tưởng đã được khẳng định nhiều lần trong nhiều bộ kinh, đặc biệt là kinh Pháp Hoa và là một trong những tư tưởng chỉ có trong giáo pháp của Phật giáo Đại thừa mà không có trong giáo lý của nhiều tôn giáo khác. Phần lớn nội dung kinh là khẳng định quan điểm "Phật tính" và cũng kèm theo đó lý luận, phân tích các luận điểm để làm sáng tỏ chủ đề ấy một cách mạch lạc, rõ ràng. Ngoài ra, một nội dung cũng tương tự Phật tính đó chính là sự thường hằng của Như Lai hay nói rõ ràng hơn là sự thường hằng của Pháp thân (Sa. dharmakāya) trong Tam thân Phật. Pháp thân Phật là thường hằng bất biến bởi Pháp thân chính là không tính, chân như là thể tính của mọi sự.

👁️ 31 | ⌚2025-09-03 20:58:28.584
Mua hàng tại Shopee giảm thêm 30%

nhỏ|235x235px|Bản kinh Đại thừa Đại-bát Niết-bàn vào thời [[nhà Tùy (Trung Hoa)]] **Đại thừa Đại Bát-niết-bàn Kinh** (Tiếng Phạn: महापरिनिर्वाण सूत्र, IAST: _Mahāparinirvāṇa Sūtra_, chữ Hán: 大般涅槃經, Bính âm: _Dàbānnièpán-jīng_) là một trong những bộ
Combo Kinh Đại Bát Niết Bàn Kinh Đại Bát Niết – bàn đề cập đến hầu như tất cả những vấn đề liên quan đến sự tu tập của người Phật tử, vì đây là
**Kinh Đại Bát-niết-bàn** (pi. _Mahāparinibbāṇa Sutta_) là bộ kinh do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết trước khi Ngài qua đời. Tại Việt Nam, có hai bản Kinh Niết Bàn của Phật giáo Nam Tông
**Niết-bàn**, trong các tôn giáo Ấn Độ (Phật giáo, Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo, Sikh giáo), là trạng thái tận diệt của một con người, giải thoát khỏi khổ và luân hồi. ## Từ
Giới thiệu sách : Kinh đại bát niết bàn ( bộ 2 tập ) là tên bộ kinh do Phật Thích Ca thuyết trước khi Ngài Niết Bàn. Có hai bản Kinh Niết Bàn của
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
**Niết Bàn Tịnh Xá** là một ngôi chùa nằm bên triền Núi Nhỏ, thành phố Vũng Tàu. Tịnh xá được Hòa thượng Thích Thiện Huệ tổ chức xây dựng từ năm 1969 đến năm 1974
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
nhỏ|260x260px|Lối vào phòng dưới đất của chùa Vân Cư Phòng Sơn, nơi cất giữ những bản kinh bằng đá của hai triều đại [[nhà Liêu|Liêu và Kim.]] **Kinh đá Phòng Sơn** (chữ Hán: 房山石經, _Phòng
nhỏ|263x263px|Một hiện vật kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng tiếng Phạn ([[Thế kỷ 5|thế kỉ V) được lưu giữ ở bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế]] **Kinh Diệu Pháp Liên Hoa** (sa. Saddharma Puṇḍarīka
Tam Tạng kinh điển của nhà Phật mênh mông như rừng, nhưng tất cả đều có cùng một mục đích là từng bước, chỉ chochúng sinh con đường tháo bỏ gông cùm của vô minh
Niết bàn có nghĩa là giải thoát, là tự do. Ta đâu cần phải chết đi mới có được cái cảm giác giải thoát và tự do đó. Nhiều người nghĩ rằng Niết bàn (Nirvãna)
_ **Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh** _ (zh. 金剛般若波羅密多經, sa. _vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra_), là một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, được lưu truyền rộng rãi vùng Đông Á. Kinh còn mang những tên ngắn khác
NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG : THÔNG ĐIỆP KINH LĂNG GIÀ Ngã tòng mỗ dạ đắc tối chính giác, nãi chí mỗ dạ nhập bát Niết-bàn, ư kỳ trung gian nãi chí bất thuyết nhất
nhỏ|Phiên bản tiêu chuẩn của Kinh điển Pali Thái Lan **Kinh điển Pāli** là bộ tổng tập kinh điển tiêu chuẩn trong truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, được bảo tồn bằng ngôn
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc
- Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức - Di Giáo Kinh: Phật Thùy Bát Niết - Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh Diệc Danh: Phật Di Giáo Kinh -
**Kinh điển Phật giáo sơ kỳ** (thuật ngữ tiếng Anh: _Early Buddhist texts_ - **EBT**), hay **Kinh văn Phật giáo sơ kỳ**, là một khái niệm học thuật để chỉ hệ thống các kinh văn
thumb|right|Tượng mô tả đức Phật thuyết kinh Chuyển pháp luân cho năm anh em [[Kiều Trần Như tại một ngôi chùa Việt Nam tại Quebec, Canada.]] **_Kinh Chuyển pháp luân_** (chữ Hán: 轉法輪經; _Chuyển pháp
**Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh** (sa. _Śūraṃgama-samādhi-sūtra_; zh. 大佛頂首楞嚴經 Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh), hoặc **Lăng-nghiêm kinh** (楞嚴經), hay còn được gọi là **Trung Ấn Độ Na-lan-đà Đại Đạo tràng Kinh** (中印度那爛陀大道場經), đã được tất
Thời thượng cổ, có bảy luồng ác khí, phàm những người tiếp xúc với chúng đều đột nhiên biến đổi tâm tính, phạm phải tội ác không thể tha thứ. Thời Xuân Thu, Lão Tử
Giới thiệu về sách “Tâm Kinh, Kim Cương Kinh” Người ta thường nói rằng nghèo không phải là do thiếu thốn mà là vì không thể thỏa mãn được những điều mong muốn của bản
Nhiêu ích hữu tình giới lấy sự cứu tế chúng sanh làm gốc. Bồ-tát, danh phù hợp với thật, chính ở chỗ phải làm thế nào lừa lọc mò bắt tất cả chúng sanh trong
Tam vô lậu học là ba môn học thù thắng mang dấu ấn đặc trưng của Phật giáo. Sau khi Đức Phật thành đạo, bánh xe Pháp đã được chuyển, vương quốc trí tuệ ra
Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, các cộng đồng Tăng đoàn (_Sangha_) đã nhóm họp định kỳ để giải quyết các tranh chấp về giáo lý và kỷ luật cũng như sửa đổi và chỉnh
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm là tên gọi tắt của Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm (Đại Phật
Kính lễ đức Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni! Kính lễ các vị Đại Bồ-tát, các Hiền thánh tăng trong mười phương! Kính lễ các vị Thiện tri thức! Đối với yếu chỉ trong kinh điển
Trái tim của Bụt là những ghi chép tổng hợp những bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong Khóa học Phật Pháp Căn Bản tại Làng Mai, Loubes-Bernac, Pháp. Những bài học đầu
Tác giả : Tỳ Kheo Thích Nguyên Chơn Ngôn ngữ: Tiếng Việt Năm xuất bản: 2024 Số trang: 521 Nhà phát hành: Cửu Đức Nhà xuất bản: Phụ Nữ Việt Nam Kích thước: 16 x
Chúng ta có thể nói rằng kinh Duy Ma là kết quả của một cuộc vận động phản kháng chủ nghĩa xuất gia. Đạo Bụt không phải chỉ dành cho những người xuất gia, chán
nhỏ|292x292px|Bản chép tay một đoạn [[Kinh Kim Cương|kinh Kim Cang vào thời nhà Tống]] **Tả kinh** (chữ Hán: 寫經) là việc biên chép các văn bản Phật giáo đặc biệt là các kinh điển Đại
THỰC TẠI XƯA NAY Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong
Thực tại xưa và nay Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp
KHÓA I Lời nói đầu 1. Đạo Phật 2. Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (từ giáng sanh đến thành đạo) 3. Lược sử Đức Phật Thích ca Mâu Ni (từ Thành đạo
KINH PHÁP CÚ là cuốn kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp
Thiền Định Về Tri Giác – Vanlangbooks - GIỚI THIỆU SÁCH Ở những bài giảng thời kỳ đầu, Đức Phật đã nhấn mạnh vai trò của sự chuyển hóa tri giác trong việc tạo điều
**Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất** là đại hội được thực hiện vào mùa hạ sau khi tổ chức lễ trà tỳ (hỏa táng) cho Phật Thích-ca Mâu-ni, mục đích
Bộ Kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi ở Trung
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Bìa Da) Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa , cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật Bản,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi ở Trung
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi ở Trung
Sách - Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - (Bìa Mềm) - Anan Books GIỚI THIỆU SÁCH Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh
Kinh Lăng Nghiêm này còn có nhiều điểm đặc biệt đáng chú ý: 1. Kinh này chỉ ra cái nhân vô sinh ngay nơi sáu căn rất rõ ràng, để làm nhân địa tu hành
Toàn bộ Phật giáo, bất kể nguyên thủy, bộ phái hay đại thừa, đều rất trọng cái thân loài người. Nói tu theo Phật giáo là nói do cái thân người và do ý thức
**A-hàm** (zh. 阿含, 阿鋡, sa., pi. _āgama_) là tên phiên âm Hán-Việt, được đặt cho các bộ kinh căn bản của Phật giáo viết bằng Phạn văn, nội dung giống các Bộ kinh (pi. _nikāya_)
_ **Giải thâm mật kinh** _ (zh. 解深密經, sa. _saṃdhinirmocana-sūtra_, bo. _dgongs pa nges par `grel pa`i mdo_ དགོངས་པ་ངེས་པར་འགྲེལ་པའི་མདོ་), phiên âm Hán-Việt là _ **San-địa-niết-mô-chiết-na-tu-đa-la** _ (zh. 刪地涅謨折那修多羅), là một bộ kinh Đại thừa. Cùng
**Tiểu bộ kinh** (zh. 小部經, pi. _khuddaka-nikāya_) là bộ thứ năm của năm Bộ kinh trong Kinh tạng (pi. _sutta-piṭaka_) văn hệ Pali. Kinh bao gồm 15 phần. ## Kinh Tiểu tụng Kinh Tiểu tụng
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa( sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật