✨Kinh tạng

Kinh tạng

Kinh tạng (chữ Hán: 经藏; , , ), còn được gọi là Tu-đa-la tạng (修多羅藏), là một trong ba bộ phận của Tam tạng, bộ phận quan trọng cốt yếu của kinh điển Phật giáo sơ kỳ. Hai phần khác của Tam tạng là Luật tạng và Luận tạng. Kinh tạng còn được gọi là 'Buddhavacana' hoặc lời nói của Đức Phật (Phật ngôn), chứa hơn 10.000 bài kinh (giáo pháp) do chính Đức Phật hoặc những đệ tử thân cận của Ngài giảng thuyết.

Nguồn gốc

Theo truyền thống, những gì sau này trở thành các bản kinh văn của Kinh tạng lần đầu tiên được tụng đọc tại Đại hội kết tập đầu tiên, được tổ chức ngay sau khi Đức Phật nhập diệt. Lần kết tập này cũng xác định bộ giới luật (Vinaya) quy định đời sống của các tăng ni trong cộng đồng Tăng già. Các học giả hiện đại hoài nghi ở mức độ khác nhau về dữ kiện này. Richard Gombrich cho rằng hầu hết bốn nikaya đầu tiên chỉ đơn thuần ghi nhận những lời dạy của Đức Phật, về nội dung nhưng không phải về hình thức. Giáo sư Hirakawa Akira lại cho rằng lần kết tập thứ nhất chỉ thu thập những đoạn văn hoặc câu văn xuôi ngắn thể hiện những học thuyết quan trọng, và chúng đã được mở rộng thành những bài kinh dài đầy đủ trong thế kỷ tiếp theo.

Nội dung

Theo truyền thống Phật giáo ghi nhận trong hệ thống kinh điển Phật giáo sơ kỳ, Kinh tạng mang nội dung là những lời dạy của chính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong suốt cuộc đời truyền bá giáo pháp của Ngài, bao gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã... Chúng được ghi nhận, cô đọng, lưu truyền bằng cách truyền khẩu, được hệ thống lại qua các kỳ Đại hội kết tập kinh điển thứ nhất và thứ hai. Truyền thống Phật giáo Nam truyền cho rằng phần Kinh tạng tập hợp trong 5 bộ nikaya, được thiết lập bằng văn tự hệ Pali vào thời kỳ A-dục vương bằng chữ viết Sinhala, được truyền bá và lưu giữ nguyên vẹn tại Sri Lanka trong suốt hơn 2.000 năm. Truyền thống Phật giáo Bắc truyền lại cho rằng phần Kinh tạng được tập hợp trong 4 bộ A-hàm (āgama), ghi lại bằng Phạn văn, được truyền bá vào Trung Hoa qua các bản dịch Hán văn.

Khác với hệ kinh văn nikāya Pali được bảo tồn hầu như nguyên vẹn qua dòng truyền thừa của Thượng tọa bộ, các bản kinh văn āgama Phạn ngữ nguyên bản hầu hết đã bị tiêu hủy hoặc thất tán do chiến tranh. Phần lớn các kinh văn āgama được bảo tồn đến ngày nay qua các bản dịch Tạng ngữ và Hán ngữ cổ điển. Bản chất các tập āgama là bộ sưu tập các kinh văn rời rạc từ nhiều bộ phái khác nhau, được dịch ra bởi nhiều dịch giả khác nhau trong những thời kỳ khác nhau, dẫn đến sự khác biệt đáng kể không chỉ giữa các bản dịch, mà còn giữa các bản kinh văn Phạn ngữ còn sót lại. Mặc dù vậy, do cùng một nguồn gốc trong hệ kinh văn sơ kỳ, nội dung các kinh văn āgama có sự tương đồng khá chặt chẽ với các kinh văn nikāya Pali, dù khác biệt rõ ràng về cách diễn đạt, cấu trúc sắp xếp và số lượng các bản kinh trong mỗi tập.

Các học giả hiện đại thường nghiên cứu so sánh song song với 5 bộ nikāya và 4 bộ āgama như sau:

👁️ 47 | ⌚2025-09-03 20:58:28.584
Mua hàng tại Shopee giảm thêm 30%

**Kinh tạng** (chữ Hán: 经藏; , , ), còn được gọi là **Tu-đa-la tạng** (修多羅藏), là một trong ba bộ phận của Tam tạng, bộ phận quan trọng cốt yếu của kinh điển Phật giáo
PRE-ORDER - HÀNG ĐẶT TRƯỚC DỰ KIẾN HÀNG VỀ: 06/06/2025 NHỮNG TINH TÚY CHỌN LỌC TRONG KINH TẠNG NIKAYA Tác giả: Tiến sĩ Glenn Wallis Dịch giả: Pháp Huệ Hiệu đính: Thuần Nguyên, Pháp Cẩn
PRE-ORDER - HÀNG ĐẶT TRƯỚC DỰ KIẾN HÀNG VỀ: 06/06/2025 NHỮNG TINH TÚY CHỌN LỌC TRONG KINH TẠNG NIKAYA Tác giả: Tiến sĩ Glenn Wallis Dịch giả: Pháp Huệ Hiệu đính: Thuần Nguyên, Pháp Cẩn
NHỮNG TINH TÚY CHỌN LỌC TRONG KINH TẠNG NIKAYA - Ngày dự kiến có hàng 10/06/2025 Tác phẩm “Những tinh túy chọn lọc trong kinh tạng NIKĀYA” được viết bởi Glenn Wallis, tiến sĩ Phật
Combo/Lẻ Sách Phật Học Tinh Hoa Thế Giới: Những Tinh Túy Chọn Lọc Trong Kinh Tạng Nikaya + Lịch Sử Phật Giáo+Tư Tưởng Phật Giáo + Thánh Đế Thánh Đạo +Toàn Cảnh Phật Giáo -
Tác phẩm “Những tinh túy chọn lọc trong kinh tạng NIKĀYA” được viết bởi Glenn Wallis, tiến sĩ Phật học Đại học Harvard, trình bày về những giáo lý cốt lõi của Đức Phật được
1. Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng NIKAYA Nội dung Kinh tạng Nikàya bao hàm nền tảng căn bản giáo lý Phật đà, rất thiết thân, gần gũi, dễ hiểu và dễ ứng dụng thực
Tác phẩm “Những Tinh Túy Chọn Lọc Trong Kinh Tạng Nikāya” do Glenn Wallis - Tiến sĩ Phật học tại Đại học Harvard - biên soạn, là một nỗ lực sâu sắc nhằm giới thiệu
Tam vô lậu học qua kinh tạng Pàli Tác giả Thích Trung Định khổ :16 x 24 cm Số trang: 390 trang Xuất bản năm: 2020 Đây chính là bản tiếng việt Luận án tiến
Tác phẩm “Những tinh túy chọn lọc trong kinh tạng NIKĀYA” được viết bởi Glenn Wallis, tiến sĩ Phật học Đại học Harvard, trình bày về những giáo lý cốt lõi của Đức Phật được
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
**Tam tạng** (chữ Hán: 三藏; ,;) là thuật ngữ truyền thống để chỉ tổng tập kinh điển Phật giáo. Tùy theo mỗi truyền thống Phật giáo sẽ tồn tại những bộ Tam tạng tương ứng
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
nhỏ|Phiên bản tiêu chuẩn của Kinh điển Pali Thái Lan **Kinh điển Pāli** là bộ tổng tập kinh điển tiêu chuẩn trong truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, được bảo tồn bằng ngôn
**Kinh điển Phật giáo sơ kỳ** (thuật ngữ tiếng Anh: _Early Buddhist texts_ - **EBT**), hay **Kinh văn Phật giáo sơ kỳ**, là một khái niệm học thuật để chỉ hệ thống các kinh văn
**_Luận tạng_** (chữ Hán: 論藏), hay **_Vi diệu pháp tạng_**, **_A-tì-đạt-ma tạng_** (pa., sa.: _Abhidharma Piṭaka_) là bộ tạng thứ ba trong kinh điển Pali cùng với Luật tạng và Kinh tạng, bộ kinh điển
Một tập kinh được viết trên lá Bối (một loại Cau). Hai mặt của tập kinh được ép lại bằng hai tấm gỗ – thường được trang trí rất đẹp – và hai sợi chỉ
**Bộ kinh** (tiếng Pali: _nikāya_) là một thuật ngữ thường được dùng để chỉ những tập hợp kinh văn trong Kinh tạng văn hệ Pàli. Chúng được sử dụng gần tương đồng với thuật ngữ
Chú Giải Kinh Pháp Cú Bộ 2 Quyển Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) trong Kinh tạng Pāli (Suttanta Piṭaka). Đây là một quyển kinh
Trường Bộ Giảng Giải Bìa Cứng, có hộp Trường bộ kinh hay kinh Trường bộ là tên đa phần nhiều vị hay gọi, dần trở thành một tên phổ biến. Thật ra, Dighanikya chỉ hiểu
Kinh Phật Dạy Người Cư Sĩ là những mẩu chuyện nhỏ trong Kinh tạng Nikaja Như vây tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú tại. Sauatthi (Xá-vệ), ở detavana (Kỹ-đài lâm), khu vườn ông Anathapindika
Bộ kinh Bách Dụ gồm 98 bài thí dụ của Phật nói do Ngài Pháp Sư Tăng Gia Tư Na sao lục trong kinh tạng. Hai thí dụ rốt sau: “Thuốc hay hòa trong đường
**Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh** (sa. _Śūraṃgama-samādhi-sūtra_; zh. 大佛頂首楞嚴經 Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh), hoặc **Lăng-nghiêm kinh** (楞嚴經), hay còn được gọi là **Trung Ấn Độ Na-lan-đà Đại Đạo tràng Kinh** (中印度那爛陀大道場經), đã được tất
**Kinh Pháp Cú** (Pāli: _Dhammapada_; Sanskrit: _Dharmapada_), còn gọi là **Kinh Lời Vàng** hay **Lời Phật Dạy**, là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu bộ kinh trong Kinh Tạng Pali. Đây là một quyển
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
Cuộc sáp nhập ** Tây Tạng của Trung Quốc**, còn được gọi theo sử học Trung Quốc là **Giải phóng Hòa bình Tây Tạng** (, ) là chỉ việc Chính phủ nước Cộng hòa Nhân
**Tử thư** (zh. 死書, bo. _bardo thodol_ བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་, nguyên nghĩa là "Giải thoát qua âm thanh trong Trung hữu", en. _liberation through hearing in the Bardo_) là một tàng lục (bo. _gter ma_ གཏེར་མ་), được
nhỏ|262x262px|Người Tạng **Người Tạng** hay **người Tây Tạng** (; ; Hán Việt: Tạng tộc) là một dân tộc bản địa tại Tây Tạng, vùng đất mà ngày nay hầu hết thuộc chủ quyền của Cộng
**Gia Hưng tạng** (chữ Hán: 嘉兴藏), tên đầy đủ là **Minh Gia Hưng Lăng Nghiêm tự Phương sách bản Đại tạng kinh** (明嘉兴楞严寺方册本大藏经), còn được gọi là **Lăng Nghiêm tự tạng** (楞严寺藏), **Minh bản** (明本),
**Tây Tạng** là một khu vực tại Trung Á, nằm trên cao nguyên Thanh Tạng, có cao độ trung bình trên 4.000 mét và được mệnh danh là "nóc nhà của thế giới". Con người
**Đại Chính tân tu Đại tạng kinh** (kanji: 大正新脩大蔵経, romaji: _Taishō Shinshū Daizōkyō_), thường gọi tắt **Đại Chính Tạng** (大正藏, _Taishōzō_) hoặc **Taishō Tripiṭaka** trong tiếng Anh, là bộ Đại tạng kinh bằng chữ Hán
**Hán hóa Tây Tạng** là một cụm từ được sử dụng bởi các nhà phê bình về sự cai trị của Trung Quốc ở Tây Tạng để chỉ sự đồng hoá văn hoá xảy ra
**Bồ Tát tạng** (tiếng Phạn: _bodhisattva-pitaka_) là một thuật ngữ Phật giáo chỉ chung tất cả kinh điển Đại thừa, là một trong các tạng Kinh điển Phật giáo (tùy theo cách phân loại mà
**Càn Long Đại tạng kinh**, còn được gọi là **Càn Long tạng**, **Long tạng**, **Thanh tạng**, là phiên bản Đại tạng kinh chính thức của nhà Thanh. Đây là một trong hai phiên bản Đại
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng** (Tiếng Trung Quốc: **西藏自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xī Zàng Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, Từ Hán - Việt: _Tây Tạng tự trị Khu Nhân
**Duy-ma-cật sở thuyết kinh** (, , _Vimalakīrti Nirdeśa Sūtra_, ) là một tác phẩm quan trọng của Phật giáo Đại thừa, có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo tại Trung Quốc, Việt Nam
phải|Các sư Tây Tạng (lama) trong một buổi lễ ở [[Sikkim]] **Phật giáo Tây Tạng** (hay còn gọi là **Lạt-ma giáo**) là một một truyền thống Phật giáo phát triển chủ đạo ở Tây Tạng.
**Bát vạn Đại tạng kinh** (Hanja: 八萬大藏經; Hangul: 팔만 대장경; phiên âm Latin: _Palman Daejanggyeong_), còn gọi là **Cao Ly Đại tạng kinh** (高麗大藏經 / 고려 대장경) hay **Cao Ly Tam tạng** (tiếng Anh: _Tripitaka
**Vương quốc Tây Tạng** là một quốc gia tồn tại từ khi Nhà Thanh sụp đổ năm 1912, kéo dài cho đến khi bị Trung Quốc sáp nhập năm 1951. Chế độ Ganden Phodrang tại
Giáo lý A tỳ đàm 1 A Tỳ Đàm là một hệ thống giáo lý trình bày vạn pháp qua khía cạnh rốt ráo nhất, không thông qua những khái niệm thường thức trong đời
Tác giả: Tiến sĩ Glenn Wallis Dịch giả: Pháp Huệ Năm xuất bản: 2025 Số trang: 296 Nhà phát hành: Omega Plus Nhà xuất bản: NXB Thế Giới Kích thước: 16x24cm Hình thức: Bìa mềm
**Khai Bảo tạng** (), hoặc _Thục bản_ (蜀版), vì được in ở Tứ Xuyên, có lúc gọi là _Bắc Tống san kinh_ (北宋刊経) là bộ tổng tập kinh văn Phật giáo in mộc bản xuất
thumb|right|Tượng mô tả đức Phật thuyết kinh Chuyển pháp luân cho năm anh em [[Kiều Trần Như tại một ngôi chùa Việt Nam tại Quebec, Canada.]] **_Kinh Chuyển pháp luân_** (chữ Hán: 轉法輪經; _Chuyển pháp
Tây du ký được xếp vào một trong tứ đại danh tác của tiểu thuyết chương hồi thời Minh-Thanh ở Trung Quốc. Câu chuyện cầu pháp, thỉnh kinh của Huyền Trang đã sớm được biên
**Thần kinh lang thang** (tên cũ: **thần kinh phế vị**, tiếng Anh: **_vagus nerve_**, tiếng Pháp: **_ le nerf vague_**) là thần kinh sọ thứ mười trong tổng số 12 đôi dây thần kinh sọ,
Nội dung cuốn sách Cốt lõi từ lời dạy nguyên thủy của Đức Phật Trong bức tranh rộng lớn của kinh điển Phật giáo, tác giả cho rằng Nikāya là nguồn gần nhất với lời
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc
nhỏ|300x300px|Một tranh vẽ minh họa từ _Triệu Thành Kim tạng_. **_Triệu Thành Kim tạng_** (chữ Hán: 趙城金藏) là một phiên bản Đại tạng kinh Hán ngữ có niên đại từ triều đại nhà Kim (1115–1234).
nhỏ|260x260px|Lối vào phòng dưới đất của chùa Vân Cư Phòng Sơn, nơi cất giữ những bản kinh bằng đá của hai triều đại [[nhà Liêu|Liêu và Kim.]] **Kinh đá Phòng Sơn** (chữ Hán: 房山石經, _Phòng